Trần Dương

Những chính sách liên quan đến doanh nghiệp có hiệu lực từ hôm nay, 1-1-2021

Admin

Từ hôm nay, 1-1-2021, nhiều luật, bộ luật có hiệu lực thi hành. Trong đó có nhiều chính sách liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Quốc hội thông qua Luật Doanh nghiệp sửa đổi

KD&TD xin điểm qua một số điểm mới từ các quy định, luật liên quan đến doanh nghiệp có hiệu lực từ hôm nay, 1-1-2021.

Cấm kinh doanh dịch vụ đòi nợ, ưu đãi đầu tư công nghệ cao, năng lượng sạch

Luật Đầu tư (sửa đổi) được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ chín. Luật này nghiêm cấm các hoạt động đầu tư kinh doanh như: Kinh doanh dịch vụ đòi nợ; Kinh doanh mại dâm; Kinh doanh pháo nổ; Mua, bán người, mô, xác, bộ phận cơ thể người, bào thai người; Hoạt động kinh doanh liên quan đến sinh sản vô tính trên người.

Ngoài ra, Luật cũng cấm kinh doanh các chất ma túy; Kinh doanh các loại hóa chất, khoáng vật; Kinh doanh mẫu vật các loài thực vật, động vật hoang dã và mẫu vật các loài thực vật rừng, động vật rừng, thủy sản nguy cấp, quý, hiếm Nhóm I khai thác có nguồn gốc từ tự nhiên...

Bên cạnh đó, Luật đã cập nhật đối tượng được ưu đãi đầu tư. Địa bàn ưu đãi đầu tư được xác định căn cứ vào vai trò, điều kiện phát triển kinh tế- xã hội của từng địa bàn, gồm địa bàn có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, địa bàn có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn và địa bàn có tác động lan tỏa (khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu kinh tế).

Theo đó, đối tượng, ngành, nghề ưu đãi đầu tư tập trung vào doanh nghiệp công nghệ cao, dự án khởi nghiệp sáng tạo, trung tâm nghiên cứu và phát triển, sản xuất vật liệu mới, năng lượng mới, năng lượng sạch, sản phẩm công nghệ thông tin, phần mềm, nội dung số... Năng lượng sạch, năng lượng tái tạo thuộc danh mục được ưu đãi đầu tư.

Bổ sung quy định mới góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, hộ kinh doanh

Luật Doanh nghiệp 2020 được thông qua tại Kỳ họp thứ chín, Quốc hội khóa XIV, thay thế Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13.

Luật Doanh nghiệp 2020 đổi được đánh giá có nhiều nội dung, quy định mới nhằm góp phần hỗ trợ doanh nghiệp, hộ kinh doanh hoạt động, như quy định về điều kiện đăng ký doanh nghiệp, rút ngắn thời gian báo trước khi tạm ngừng kinh doanh từ 2021...

Luật đã bổ sung đối tượng không được thành lập doanh nghiệp, gồm: Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng...

Luật Doanh nghiệp sửa đổi đã bỏ quy định về chuyển hộ kinh doanh thành doanh nghiệp.

Bảy nhóm đối tượng bị cấm thành lập doanh nghiệp

Theo Luật doanh nghiệp 2020, bảy nhóm đối tượng thuộc tổ chức, cá nhân dưới đây không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam:

Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; Cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức…

Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 88 của Luật này, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; tổ chức không có tư cách pháp nhân…

Điều kiện an toàn về phòng cháy và chữa cháy

Nghị định số 136/2020/NĐ-CP ban hành ngày 24/11/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng cháy và chữa cháy và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy.

Trong đó, Nghị định quy định rõ về điều kiện an toàn về phòng cháy và chữa cháy đối với cơ sở, khu dân cư, hộ gia đình, phương tiện giao thông cơ giới.

Kéo dài thời hạn thực hiện hạng đất tính thuế sử dụng đất nông nghiệp

Nghị định 146/2020/NĐ-CP ban hành ngày 18/12/2020 sửa đổi, bổ sung Điều 5 Nghị định số 20/2011/NĐ-CP ngày 23/3/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 55/2010/QH12 ngày 24/11/2010 của Quốc hội về miễn, giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp.

Theo đó, về hạng đất tính thuế, Nghị định 146 nêu rõ: Kéo dài thời hạn thực hiện hạng đất tính thuế sử dụng đất nông nghiệp đến hết ngày 31/12/2025 (quy định cũ đến ngày 31/12/2020) trên cơ sở hạng đất đã được quy định và thực hiện trong giai đoạn từ năm 2011 đến hết năm 2020.

Trường hợp địa phương được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt điều chỉnh hạng đất tính thuế sử dụng đất nông nghiệp theo quy định thì thực hiện theo quy định đó đến hết ngày 31/12/2025.

Dịp Quốc khánh được nghỉ 2 ngày

Bộ luật Lao động năm 2019 mở rộng đối tượng điều chỉnh đối với cả người lao động có quan hệ lao động và người lao động không có quan hệ lao động, ở cả khu vực chính thức và khu vực phi chính thức.

Theo điều 112 của Bộ luật, dịp Quốc khánh người lao động được nghỉ 2 ngày (ngày 2/9 dương lịch và 1 ngày liền kề trước hoặc sau) vẫn hưởng nguyên lương.

Như vậy, tổng số ngày nghỉ lễ, tết trong năm là 11 ngày. Trong đó, Tết Dương lịch nghỉ một ngày; Tết Âm lịch nghỉ một ngày; Thống nhất đất nước 30/4 nghỉ một ngày; Quốc tế lao động 1/5 nghỉ một ngày; Quốc khánh nghỉ hai ngày; Giỗ tổ Hùng Vương (10/3 Âm lịch) nghỉ một ngày.

Tăng tuổi nghỉ hưu theo lộ trình

Bộ luật Lao động sửa đổi thông qua tại Kỳ họp thứ VIII, thay thế cho Bộ luật Lao động số 10/2012/QH13 hiện hành (hết hiệu lực).

Đáng chú ý, Bộ luật Lao động sửa đổi quy định tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035.

Theo đó, kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi ba tháng đối với lao động nam, và đủ 55 tuổi bốntháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm ba tháng đối với lao động nam và bốn tháng đối với lao động nữ.

Đồng thời, Bộ luật mới cũng quy định người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn... có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá năm tuổi so với quy định về tuổi nghỉ hưu nêu trên tại thời điểm nghỉ hưu.

Người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và một số trường hợp đặc biệt có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá năm tuổi so với quy định về tuổi nghỉ hưu nêu trên tại thời điểm nghỉ hưu. Người lao động phải bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi đủ tuổi nghỉ hưu.

 

KIM ĐIỀN