Trần Dương

Rủi ro tiềm ẩn từ ‘tứ trụ liên thông”

Admin

Điều tôi lo âu chính là rủi ro hệ thống tài chính. Nó lan truyền giữa ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, bất động sản. Đây được ví như “tứ trụ liên thông” tương đối rủi ro.

Liên quan đến thị trường chứng khoán với những vụ việc gần đây ảnh hưởng rất lớn đến sự ổn định của thị trường, như FLC, Tân Hoàng Minh… Về vấn đề này, chúng tôi đã báo cáo trực tiếp với Thủ tướng, và nhận thấy có 5 nguyên nhân cơ bản.

TS. Cấn Văn Lực, Giám đốc Học Viện Đào tạo Nghiên cứu BIDV.

Thứ nhất, chúng ta có thị trường chứng khoán còn rất non trẻ. Thị trường cổ phiếu 22 năm, thị trường trái phiếu doanh nghiệp 16 năm.

Trong khi thị trường lại tăng trưởng tương đối nhanh, bình quân năm 2011-2021 thị trường tài chính, bao gồm cả khối ngân hàng, khối chứng khoán, khối bảo hiểm, khối phái sinh tăng trưởng 14%/năm.

Thị trường cổ phiếu tăng trưởng 27%/năm về vốn hoá, trái phiếu khoảng 14%/năm, bao gồm cả chính phủ và doanh nghiệp.

Như vậy, thị trường chúng khoán của chúng ta đang ở “độ tuổi” tăng trưởng rất nhanh, thì chắc chắn sẽ gặp phải một số hệ luỵ và rủi ro.

Thứ hai, vừa qua cơ quan quản lý rất mong muốn thúc đẩy thị trường này phát triển để doanh nghiệp tiếp cận vốn tốt hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh dịch bệnh nên điều kiện tín dụng với hệ thống ngân hàng tương đối khó khăn.

Theo tôi, cách tiếp cận này không sai, tuy nhiên ở đâu đó có một số điều kiện còn lỏng lẻo so với với sự “tinh vi” của các chủ thể tham gia thị trường.

Thứ ba, phụ thuộc vào vốn ngân hàng. Chúng tôi tính toán, toàn bộ cấu trúc vốn của nền kinh tế Việt Nam theo hướng tỉ trọng vốn cho đầu tư toàn xã hội 2021, khối ngân hàng tín dụng đóng góp khoảng 47%, thị trường trái phiếu doanh nghiệp 22%, thị trường cổ phiếu khoảng 3,2%, vốn đầu tư công khoảng 14%, FDI khoảng 15%.

Chúng tôi không tính thị trường trái phiếu chính phủ, bởi vì sau khi phát hành chính phủ phải giải ngân đầu tư công thì lấy kết quả giải ngân đầu tư công để tính toán đóng góp vào tổng vốn cho nền kinh tế như thế nào.

Và chúng ta thấy rất rõ, gần 50% vốn là từ khối ngân hàng. Trong khi đó, ngân hàng không thể cho vay trung và dài hạn mãi được. Hiện nay, trung và dài hạn của hệ thống ngân hàng tín dụng khoảng 45%.

Thứ tư, về khung khổ pháp lý cũng đã tích cực và chủ động thay đổi, nhưng “đâu đó” vẫn có những nhịp chậm hơn so với yêu cầu phát triển của thị trường.

Có một số điều kiện quản lý còn lỏng lẻo so với với sự “tinh vi” của các chủ thể tham gia thị trường.

Thứ năm, khâu kiểm tra, thanh tra, giám sát. Bởi tính chất “tinh vi” của thị trường nên khâu thanh kiểm tra cần phải làm tốt hơn nữa.

Còn với thị trường vốn, chúng ta vẫn phải để thị trường quyết định. Nhưng hiện nay thị trường có khiếm khuyết thì nhà nước phải can thiệp.

Chúng tôi có tư vấn với Chính phủ về giải pháp can thiệp cần rất “khéo”. Nghĩa là vừa kiến tạo để thị trường phát triển, nhưng vẫn kiểm soát được rủi ro. Còn đâu là điểm chính sách tối ưu, thì cơ quan nhà nước phải tìm ra để làm cho tốt hơn.

Về giải pháp, chúng tôi có một số đề xuất cho thị trường vốn, trong đó có trái phiếu.

Một là, công khai, minh bạch.

Hai là, chuyên nghiệp.

Ba là, phối hợp chính sách.

Đặc biệt, điều tôi vẫn lo âu chính là rủi ro hệ thống tài chính của chúng ta. Nó lan truyền giữa ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, bất động sản. Đây được ví như “tứ trụ liên thông” tương đối rủi ro.

Vấn đề này chúng tôi đã kiến nghị Chính phủ cũng cần phải giám sát cả rủi ro hệ thống tài chính này tốt hơn.

Cuối cùng là thông tin số liệu của chúng ta vẫn còn nhiều bất cập. Tôi đề nghị phải thay đổi và nâng cao tính chuyên nghiệp của nhà đầu tư cá nhân và những tổ chức khác. Do đó, giáo dục tài chính là kênh rất quan trọng để thúc đẩy vấn đề này.

TS CẤN VĂN LỰC

Giám đốc Học Viện Đào tạo Nghiên cứu BIDV