Đối mặt với nợ xấu có thể lên tới 6% năm 2022
Tại Hội thảo “Cần Luật hoá NQ 42 để giải bài toán xử lý nợ xấu ngân hàng” tổ chức sáng 19/2, TS Cấn Văn Lực, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, tỏ ra lo lắng vì thiếu hành lang pháp lý khiến nợ xấu ngân hàng có thể bật tăng mạnh nửa cuối năm nay.
Số liệu từ NHNN cho thấy, cuối năm 2021 tỷ lệ nợ xấu nội bảng là 1,9% (tăng 0,21 điểm % so với cuối năm 2020), nếu tính thêm nợ bán cho VAMC thì con số này là 3,9%. Tỷ lệ nợ xấu gộp (bao gồm nợ xấu nội bảng, nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và nợ xấu tiềm ẩn từ các khoản cơ cấu lại) tăng mạnh lên mức 7,31% cuối năm 2021 từ mức 5,1% cuối năm 2020 và gần tương đương với con số cuối năm 2017 (7,4%) - cũng là năm mà Nghị quyết 42 bắt đầu có hiệu lực. Covid 19 đã phá hủy nhiều thành quả tái cơ cấu ngân hàng, xử lý nợ xấu thời gian qua.
TS Cấn Văn Lực cho rằng, mặc dù hai năm vừa qua, các ngân hàng đã nỗ lực tăng mạnh bao phủ nợ xấu, nhưng không thể chủ quan bởi bao phủ nợ xấu chưa tính đến các khoản nợ xấu bán cho VAMC chưa được xử lý và các khoản nợ xấu tiềm ẩn từ nợ tái cơ cấu, và khả năng chuyển các khoản nợ từ nhóm 1,2 thành nợ xấu do điều kiện kinh doanh của các doanh nghiệp không thuận lợi trong thời gian tới (tỷ lệ nợ xấu gộp cao gấp 3,8 lần tỷ lệ nợ xấu nội bảng cuối năm 2021).
Mặc dù nửa đầu năm 2022, tình hình nợ xấu sẽ vẫn chưa có nhiều áp lực do Nghị quyết 42 vẫn có hiệu lực, đồng thời ngân hàng vẫn được tiếp tục cơ cấu nợ cho khách hàng bị ảnh hưởng bởi Covid 19.
Tuy nhiên, đến nửa cuối năm 2022, các vấn đề về khung pháp lý có thể xoay chuyển theo hướng không có lợi cho vấn đề xử lý nợ xấu của toàn ngành ngân hàng.
Cụ thể, Thông tư 14/2021/TT-NHNN về cơ cấu nợ của NHNN sẽ chỉ có hiệu lực tới 30/6/2022. Nghị quyết 42 cũng sẽ hết hiệu lực từ 15/8/2022. Trong trường hợp Nghị quyết 42 không được gia hạn hoặc luật hóa sẽ gây ra việc thiếu hụt các cơ chế xử lý hiệu quả nợ xấu.
TS Cấn Văn Lực nói: “Khi đó, tiến độ cũng như hiệu quả xử lý nợ xấu của hệ thống tổ chức tín dụng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực, gây ra tình trạng nợ xấu cũ chưa xử lý tiếp tục tồn đọng, quá trình xử lý nợ xấu mới phát sinh từ đại dịch sẽ kéo dài hoặc không thể giải quyết được, gây bất ổn cho hệ thống các TCTD nói riêng và toàn nền kinh tế nói chung.
Với viễn cảnh đó, theo ông Lực, vấn đề nợ xấu có thể trở thành tâm điểm của thị trường tài chính Việt Nam trong năm 2022, khi mà tỷ lệ nợ xấu gộp đang ở mức cao nhất trong vòng 4 năm trở lại đây, phá vỡ thành quả tái cơ cấu các tổ chức tín dụng giai đoạn 2016 – 2020. Do có độ trễ, nợ xấu nội bảng được dự báo có thể lên mức 2,3-2,5% và nợ xấu gộp sẽ khoảng 6% trong năm 2022, và có thể còn ở mức cao hơn khi từ năm 2024.
Thực tế, nợ xấu tăng là vấn đề toàn cầu. Số liệu mà ông Lực thu thập cho thấy, tại Mỹ nợ xấu cũng tăng không kém gì Việt Nam. Tỉ lệ gia tăng chủ yếu đến từ cho vay tiêu dùng và thẻ tín dụng, đây là đối tượng chịu tác động mạnh nhất trong bối cảnh kinh tế khó khăn. Riêng tại châu Âu, tỉ lệ nợ xấu lại giảm do họ bán, thanh lý rất nhiều nợ xấu. Họ bán theo cơ chế thị trường, giá thị trường, bán đứt. Tại châu Á, tỉ lệ nợ xấu đồng loạt tăng từ Hàn Quốc, ASIAN 5 hay Trung Quốc. Theo ông, đây là xu thế tất yếu trong bối cảnh kinh tế khó khăn, sản xuất đình trệ và thu nhập của người dân giảm.
Cần nhanh chóng luật hóa nợ xấu
Để giảm thời gian và nâng cao hiệu quả xử lý nợ xấu, các chuyên gia và đại diện Hiệp hội Ngân hàng thống nhất kiến nghị sớm luật hoá Nghị quyết 42 và hoàn thiện hệ thống pháp luật về xử lý nợ xấu, tài sản đảm bảo.
TS Cấn Văn Lực kiến nghị Chính phủ xem xét đề xuất Quốc Hội sớm tổng kết Nghị quyết 42, tiến tới luật hóa Nghị quyết 42 trên cơ sở rà soát, hoàn thiện và hệ thống hóa các quy định pháp luật liên quan, hoặc ít nhất là gia hạn, có điều chỉnh phù hợp Nghị quyết 42 theo hướng tiếp thu các mặt được, giải quyết các tồn tại, vướng mắc trong quá trình thực thi.
Ông cho biết việc luật hóa Nghị quyết 42 có thể tiến hành theo hai bước. Thứ nhất, có thể gia hạn, điều chỉnh, cập nhật phù hợp Nghị quyết 42 với thời gian khoảng 3 năm để có thêm thời gian rà soát, chuẩn bị cho dự thảo luật, cũng như kịp thời tháo gỡ những vướng mắc.
Thứ hai, xây dựng luật xử lý nợ xấu theo hướng phù hợp với thị trường và thông lệ quốc tế hơn.